Description
BẠCH CẬP
Bạch cập mọc hoang dại ở nhiều vùng cao mát ở nước ta như Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang… Cây bạch cập còn có tên là bạch căn, cam căn, liên cập thảo. Thuộc họ Lan. Vào mùa hạ, ở đầu cành nở hoa rất đẹp, màu đỏ tía. Vị đắng ngọt sáp, tính hơi hàn. Quy kinh phế, can, vị.
Có nhiều nơi trên thế giới đã nghiên cứu dùng hoa, toàn thân, rễ cây lan này làm thuốc và cũng đã có sản phẩm được bán trên thị trường.
– Thành phần chủ yếu: Bletilla mannan (gồm mannose và glucose). Trong rễ tươi bạch cập có tinh bột, glucose, tinh dầu, chất nhầy, nước.
– Tác dụng dược lý theo Y học cổ truyền: thu liễm cầm máu, tiêu sưng sinh cơ.
– Chủ trị các chứng: khái huyết, thổ huyết, phế ung, chấn thương ngoại khoa gây chảy máu.
Hiện nay bạch cập được dùng chủ yếu trong phạm vi nhân dân, làm thuốc cầm máu, trong những trường hợp nôn ra máu, đau mắt đỏ, dùng ngoài đắp lên những mụn nhọt sưng tấy, bỏng lửa. Ngày dùng từ 4 – 12g dưới dạng thuốc bột hay thuốc sắc.
– Bài thuốc thường dùng:
Chữa thổ huyết: bạch cập tán nhỏ, uống với nước cơm hay nước cháo. Ngày uống 10 – 15g.
Đổ máu cam: bạch cập tán nhỏ, hòa với nước, đắp lên sống mũi và uống. Ngày uống 1 – 3g.
Chữa bỏng lửa: bạch cập tán nhỏ, hòa với dầu vừng bôi lên.
Vết thương do đâm chém: bạch cập 20g, thạch cao 20g, hai vị tán nhỏ trộn đều, rắc lên vết thương rất chóng hàn miệng.